AHA – Những nghiên cứu nổi bật về bệnh tim và đột quỵ

Trong năm qua, tiêu điểm y tế luôn xoay quanh vấn đề về Covid-19. Tuy nhiên, các nghiên cứu quan trọng về tim mạch vẫn được tiến hành. Các nghiên cứu đã chỉ ra những cách tốt hơn để chăm sóc đột quỵ, suy tim và tăng huyết áp. AHA đã biên soạn một bản tóm tắt hàng năm về các nghiên cứu khoa học đáng chú ý.

Tác giả: ,

Cập nhật lần cuối lúc 21:13, 04/05/2022. Phản hồi về nội dung, liên hệ với chúng tôi tại đây

Các điểm nổi bật đáng lưu ý:

  • Semaglutide dạng thuốc tiêm dưới da hàng tuần, đã trở thành loại thuốc đầu tiên kể từ năm 2014 được FDA  phê duyệt để quản lý cân nặng mãn tính
  • MIS-C cho thấy tác động tim là phổ biến nhất: loạn nhịp tim, sốc, giảm phân suất tống máu, giãn động mạch vành và tích tụ dịch trong túi màng ngoài tim xung quanh tim
  • Phòng ngừa cúm cũng giúp loại bỏ các nguy cơ về tim mạch và các nguy cơ khác
  • Vấn đề về tim mạch trong thai kì có thể mang đến rủi ro cho mẹ, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ
  • Polypill chứa bốn loại thuốc: simvastatin, hydrochlorothiazide, atenolol và ramipril. Có thể giảm 31% nguy cơ tử vong do tim mạch hoặc các biến cố bao gồm nhồi máu cơ tim, đột quỵ, ngừng tim và suy tim khi so với giả dược

Các nghiên cứu về sử dụng thuốc đối với tình trạng béo phì

Vào tháng 6, semaglutide dạng thuốc tiêm dưới da hàng tuần, đã trở thành loại thuốc đầu tiên kể từ năm 2014 được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm phê duyệt để quản lý cân nặng mãn tính. Nhiều nghiên cứu vào năm 2021 đã trình bày chi tiết về những lợi ích giảm cân tiềm năng của Semaglutide kể cả trên bệnh nhân không đái tháo đường.

  • Nghiên cứu STEP 1 đã thử semaglutide đường tiêm với giả dược trên 1.900 bệnh nhân, đa số là phụ nữ mắc chứng béo phì hoặc thừa cân và có ít nhất một yếu tố nguy cơ khác liên quan đến cân nặng (không phải đái tháo đường). Sau 68 tuần, 2/3 số người tham gia nghiên cứu trong nhóm semaglutide giảm trung bình 14.9% cân nặng. Trong khi đó ở nhóm ở nhóm giả dược chỉ giảm 2.4%.
  • Nghiên cứu STEP 3 được thiết kế để so sánh hiệu quả giữa semaglutide dạng tiêm và giả dược kết hợp với chế độ ăn ít calorie trong 8 tuần đầu và liệu pháp hành vi (behavioral therapy) trong 68 tuần. Trong số khoảng 600 người Mỹ tham gia, gần 500 người là phụ nữ. Những người tham gia nhóm dùng semaglutide đã giảm trung bình 16% cân nặng so với giảm 5.7% ở nhóm giả dược.
  • Nghiên cứu STEP 4, đã tiến hành để biết xem liệu semaglutide hàng tuần so với giả dược khi đi cùng với tư vấn lối sống có giúp quản lí được việc giảm cân không. Trong số 800 người tham dự, đa số là phụ nữ, họ được cho sử dụng semaglutide trong 20 tuần và giảm trung bình 10.6% cân nặng kèm theo nhiều cải thiện về sức khỏe khác. Sau đó 1/3 người tham dự được chuyển sang tiêm placebo trong 48 tuần. Trung bình, những người tiếp tục dùng semaglutide giảm 7.9% cân nặng và có nhiều cải thiện sức khỏe kèm theo trong 48 tuần đó, trong khi nhóm placebo cho thấy cân nặng tăng trung bình khoảng 6.9%.
  • Một nghiên cứu mới trên 2.600 bệnh nhân ở Canada được thực hiện để giúp các bác sĩ cân nhắc lợi ích và nguy cơ khi cắt bỏ dạ dày ở những bệnh nhân có vấn đề trên tim. So với những người cùng lứa tuổi mắc vấn đề sức khỏe tương tự nhưng không cắt bỏ dạ dày, những người thực hiện phẫu thuật giảm 42% nguy cơ tử vong hoặc mắc các vấn đề tim mạch lớn như nhập viện do nhồi máu cơ tim, đột quỵ và suy tim. Tuy nhiên, những kết quả này cần được xác nhận bằng một thử nghiệm ngẫu nhiên, quy mô lớn hơn.

Mở rộng phạm vi điều trị của thuốc Đái Tháo Đường

  • Vào cuối năm 2020, thử nghiệm SCORED đã được thực hiện để nghiên cứu về thuốc sotagliflozin trên bệnh nhân mắc đái tháo đường type 2 và bệnh thận mạn tính. So với nhóm giả dược, nhóm nhận sotagliflozin có nguy cơ nhập viện hoặc chăm sóc khẩn cấp do suy tim hay tử vong do bệnh tim thấp hơn.
  • Các phát hiện từ một nghiên cứu đối chứng với giả dược được đăng tải vào cuối năm 2020 là SOLOIST-WHF, đã cho thấy sotagliflozin có thể giảm cùng mức nguy cơ ở những bệnh nhân đái tháo đường và gần đây có suy tim trở nặng.
  • Trong thử nghiệm EMPEROR-Reserved, qua việc tiến hành thử chất ức chế SGLT2 empagliflozin trên 6.000 bệnh nhân, các nhà nghiên cứu đã phát hiện SGLT2-i empagliflozin có thể giảm tỉ lệ tử vong do bệnh tim mạch hoặc nhập viện do suy tim lên đến hơn 20%. Empagliflozin cho thấy hiệu quả trên cả những bệnh nhân mắc hoặc không mắc đái tháo đường.

Các thử nghiệm thuốc đạt được thành công mới trong việc tránh các biến chứng tim mạch của bệnh tiểu đường

  • Các nghiên cứu trước đây đã cho thấy finerenone có thể cải thiện kết cục trên tim mạch và làm hạn chế tiến độ suy giảm chức năng thận ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 và bệnh thận tiến triển.
  • Nghiên cứu FIGARO-DKD đã được tiến hành trên những bệnh nhân đái tháo đường type 2. Những người tham gia là những người có bệnh thận giai đoạn sớm và có tăng albumin niệu nghiêm trọng hoặc những người có bệnh thận giai đoạn muộn nhưng lượng albumin niệu trung bình. Trong hơn 7.400 người tham dự, finerenone giảm nguy cơ tử vong hay biến chứng tim mạch hơn nhóm giả dược 13%. Việc giảm này chủ yếu là kết quả của việc giảm số lần nhập viện do suy tim.
  • Một nghiên cứu quốc tế khác, AMPLITUDE-O, đã thử nghiệm thuốc efpeglenatide ở những người mắc bệnh tiểu đường type 2 và có tiền sử bệnh tim mạch hoặc bệnh thận hiện tại cộng với ít nhất một yếu tố nguy cơ tim mạch khác. Trong số hơn 4.000 người tham gia, tiêm efpeglenatide dưới da hàng tuần có liên quan đến việc cải thiện các yếu tố nguy cơ và giảm 27% tỷ lệ bị nhồi máu cơ tim, đột quỵ hoặc tử vong do tim mạch hoặc không rõ nguyên nhân.

Y học chính xác có thể giúp hỗ trợ tim trong amyloidosis transthyretin và chứng loạn dưỡng cơ Duchenne.

  • Bằng cách sử dụng kĩ thuật chỉnh sửa gen chính xác, các nhà nghiên cứu có thể đã mở ra cánh cửa điều trị mới cho hai căn bệnh đe dọa tính mạng là bệnh amyloidosis transthyretin và chứng loạn dưỡng cơ Duchenne.
  • Trong một nghiên cứu nhỏ, được công bố trên Tạp chí Y học New England, sử dụng công nghệ chỉnh sửa gen tiên tiến CRISPR-Cas9 có thể thay đổi quá trình của các bệnh trên. Các nhà khoa học đã nhắm đến lỗi gen gây ra sai hỏng trên protein TTR ở sáu tình nguyện viên mắc chứng bệnh amyloidosis transthyretin di truyền. Bốn tuần sau khi thực hiện liệu pháp, nồng độ của protein lỗi trong máu của bệnh nhân giảm trung bình 52% với liều điều trị thấp hơn và 87% với liều cao hơn.
  • Nghiên cứu khác đã khám phá những lợi ích tiềm năng của liệu pháp dựa trên CRISPR-Cas9 trong chứng loạn dưỡng cơ Duchenne.
  • Trong một loạt các thí nghiệm được mô tả trên tạp chí Circulation Research của AHA, các nhà khoa học tại Dallas đã kiểm tra xem liệu chỉnh sửa gen có thể giúp bảo vệ tim của bệnh nhân hay không. Nhóm nghiên cứu đã tạo ra tế bào gốc đa năng cảm ứng – một loại tế bào được lập trình lại có thể phát triển thành các loại tế bào trưởng thành khác nhau – từ một bệnh nhân mắc chứng loạn dưỡng cơ Duchenne và từ một người anh em khỏe mạnh của người bệnh đó. Việc chỉnh sửa gen đã cho phép các tế bào của bệnh nhân trở thành tế bào cơ tim có hình dạng và chức năng giống như của người anh em khỏe mạnh. Và trong một kịch bản gần hơn với cách mà bệnh xuất hiện trên bệnh nhân, các tế bào đã được chỉnh sửa sau đó (khi chúng trở thành tế bào cơ tim) ít có khả năng bị rối loạn nhịp tim hơn.

Tìm ra điểm sáng thành  trong việc kiểm soát huyết áp

  • Để có 1 sức khỏe tim mạch tốt, cần thay thế 25% natri clorua bằng kali clorua tương đương
  • Một nghiên cứu đột quỵ và thay thế muối ở Trung Quốc, được thực hiện với 600 ngôi làng nông thôn và gần 21.000 người, những người tham gia hoặc có tiền sử đột quỵ hoặc từ 60 tuổi trở lên bị huyết áp cao được kiểm soát kém. Các nhà nghiên cứu viết: Với thời gian theo dõi trung bình gần 5 năm, tỷ lệ đột quỵ thấp hơn 14% ở các làng được chỉ định sử dụng hỗn hợp muối có chứa 25% kali clorua, so với những làng tiếp tục sử dụng muối (tất cả-natri-clorua) thường xuyên trên Tạp chí Y học New England.
  • Một thử nghiệm lớn khác từ Trung Quốc, có tên là STEP đã tập trung vào những người từ 60 đến 80 tuổi, Trong hơn ba năm theo dõi, các nhà nghiên cứu đã theo dõi liệu những người tham gia đã chết vì bệnh tim mạch hay bị đột quỵ, đau tim, suy tim hoặc nhiều vấn đề về tim khác. Các nhà khoa học đã báo cáo trên Tạp chí Y học New England, những kết quả đó chỉ xảy ra ở 3,5% những người có mục tiêu điều trị tích cực( mục tiêu huyết áp tâm thu – con số cao nhất trong kết quả đo huyết áp – từ 110 đến dưới 130 mmHg) , so với 4,6% ở nhóm còn lại (Mục tiêu tâm thu 130 đến dưới 150 mmHg). Các phát hiện hỗ trợ cho các hướng dẫn hiện tại của AHA và American College of Cardiology về quản lý huyết áp cao, trong đó đặt mục tiêu tâm thu dưới 130 mmHg cho hầu hết bệnh nhân.

Vấn đề sức khoẻ tim mạch ở người trẻ trong đại dịch COVID-19

  • Đại dịch đã đặt ra những thách thức về vấn đề sức khoẻ đối với trẻ em và thanh niên, đặc biệt là  xuất hiện các tình trạng hiếm gặp, nghiêm trọng liên quan đến virus hoặc khi dùng hai liều vắc xin. Các nhà điều tra Châu Âu đã tiến hành nghiên cứu một bức ảnh chụp nhanh, tập trung vào tim của một tình trạng liên quan đến coronavirus mới xuất hiện – hội chứng viêm đa hệ ở trẻ em. MIS-C có thể gây viêm nguy hiểm ở tim, phổi, thận, não, da, mắt và các cơ quan khác.
  • Kết quả nghiên cứu với sự tham gia của 286 bệnh nhân trẻ tuổi mắc MIS-C cho thấy tác động tim là phổ biến nhất: loạn nhịp tim, sốc, giảm phân suất tống máu, giãn động mạch vành và tích tụ dịch trong túi màng ngoài tim xung quanh tim. Các nhà khoa học lưu ý rằng các dấu hiệu viêm đã tăng lên ở hầu hết trẻ em. Và gần 2/3 có bằng chứng về việc trước đó đã nhiễm vi rút gây ra COVID-19.
  • Các nghiên cứu ở trường hợp viêm cơ tim hoặc viêm cơ tim phát sinh sau khi tiêm vaccine mRNA cũng cho thấy có 136 trường hợp viêm cơ tim xác định hoặc có thể xảy ra, một trường hợp tử vong, trong số hơn 5 triệu người từ 16 tuổi trở lên đã được tiêm vắc xin Pfizer từ tháng 12 năm 2020 đến tháng 5 năm 2021.
  • Có gần 4/100.000 bé trai hoặc đàn ông và ít hơn 1/100.000 bé gái hoặc phụ nữ có phát triển bệnh viêm cơ tim trong vòng 30 ngày sau liều tiêm Pfizer thứ hai. Những tỷ lệ này gần như là 11/100.000 ở nam giới từ 20 đến 24 tuổi và 15/100.000 ở nam giới từ 16 đến 19 tuổi thuộc nhóm tuổi có tỷ lệ nguy cơ mắc cao nhất.
  • Ở các nghiên cứu khác, trong 2,5 triệu bệnh nhân tại nhà được cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ thì xác định được 54 trường hợp viêm cơ tim trong thời gian 5 tháng và được nêu rõ chi tiết y tế của các trường hợp.
  • Nhìn chung, các nghiên cứu kết luận rằng nguy cơ viêm cơ tim sau khi tiêm chủng là thấp. Hầu hết các trường hợp đều nhẹ hoặc trung bình và cuối cùng được giải quyết. Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ tiếp tục khuyến nghị tiêm vắc xin chống lại COVID-19 ở người lớn và trẻ em đủ điều kiện và lưu ý rằng nghiên cứu đang diễn ra rõ ràng cho thấy nguy cơ biến chứng tim, đột quỵ và các vấn đề đông máu sau khi nhiễm COVID-19 cao hơn nhiều so với sau khi tiêm chủng.

Phòng ngừa cúm cũng giúp loại bỏ các nguy cơ về tim mạch và các nguy cơ khác

  • Nghiên cứu được công bố trên tạp chí Circulation cho thấy: Khi tiêm phòng ngừa cúm trong vòng 72 giờ sau khi bị đau tim hoặc thủ thuật mạch vành xâm lấn có thể mang lại lợi ích sức khỏe sau mùa cúm.
  • Một nhóm các nhà điều tra quốc tế đã tiến hành tiêm vaccine cho 1.272 bệnh nhân tim và 1.260 bệnh nhân bằng giả dược (nước muối sinh lý), sau đó theo dõi sức khỏe của họ trong một năm. Khi so với nhóm dùng giả dược, nghiên cứu cho thấy những người được tiêm vaccine ít có nguy cơ bị đau tim, tạo máu đông trong stent mạch vành hoặc tử vong vì bất kỳ nguyên nhân nào. Họ cũng có nguy cơ chết vì bệnh tim mạch thấp hơn 41%.

Vấn đề về tim mạch trong thai kì có thể mang đến rủi ro cho mẹ, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ

  • Bệnh tim mạch là nguyên nhân số 1 gây tử vong mẹ ở Hoa Kỳ. Các yếu tố nguy cơ phát sinh trước khi mang thai có thể đe dọa kết quả thai kỳ và gây nguy hiểm tim mạch sau này.
  • Các nhà nghiên cứu đã phân tích hơn 31,6 triệu giấy khai sinh của Hoa Kỳ từ năm 2011 đến 2019, tập trung vào bốn điểm dữ liệu: hút thuốc trước khi mang thai, chỉ số cơ thể và sự hiện diện của huyết áp cao hoặc tiểu đường. Kết quả báo cáo cho thấy năm 2011, có 42,1% phụ nữ có số điểm lý tưởng là 4 nhưng vào năm 2019, chỉ còn 37,7%.
  • Nghiên cứu cho thấy phụ nữ da đen ít có khả năng đạt điểm số lý tưởng về sức khỏe tim mạch nhất vào năm 2019. Trong khi đó, phụ nữ gốc Tây Ban Nha có điểm số sức khỏe tim trước khi mang thai giảm nhiều nhất trong thời gian nghiên cứu.
  • Nghiên cứu còn lưu ý rằng tỷ lệ béo phì và tiểu đường đang gia tăng ở những người trẻ tuổi và tăng cao không cân đối ở những người gốc Tây Ban Nha. Các tác giả cho biết các nghiên cứu trong tương lai nên bao gồm nhiều yếu tố hơn liên quan đến sức khỏe tim mạch và nhằm mục đích nắm bắt các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến sức khỏe, bao gồm cả phân biệt chủng tộc, liên quan đến sức khỏe của phụ nữ trước khi mang thai như thế nào.
  • Sức khỏe tim mạch  kém của người mẹ có thể ảnh hưởng xấu ngay cả khi mang thai và những tháng sau sinh thạm chí  đến tuổi vị thành niên của trẻ em. Trong một nghiên cứu trên 2.300 bà mẹ và con cái của họ ở Mỹ, Canada và bốn quốc gia khác, sức khỏe tim mạch của bà mẹ kém ở tuần thứ 28 của thai kỳ có liên quan đến sức khỏe tim kém hơn ở trẻ sau này ở độ tuổi từ 10 đến 14.
  • Sức khỏe của bà mẹ được cho điểm dựa trên năm thước đo sức khỏe tim mạch: chỉ số khối cơ thể, huyết áp, tổng lượng cholesterol, mức đường và tình trạng hút thuốc. Trẻ em cũng được cho điểm dựa trên những yếu tố đó nhưng trừ tình trạng hút thuốc. Chỉ khoảng 1/3 các bà mẹ có điểm số cao nhất phản ánh tất cả các chỉ số lý tưởng; trong khi con số này ở trẻ em là  42%
  • Khi điểm số sức khỏe thai kỳ của các bà mẹ xấu đi, tỷ lệ trẻ có điểm số lý tưởng giảm xuống. Điều này cho thấy một điểm chung về sức khỏe tim mạch trong thời kỳ mang thai (thay vì chỉ tập trung vào các yếu tố nguy cơ riêng lẻ) có thể ảnh hưởng sức khỏe của thai nhi và giúp xác định trẻ sơ sinh có nguy cơ mắc bệnh tim mạch sau này.

Các nghiên cứu xem xét đến nguy cơ của các phương pháp điều trị chống đông máu

  • Một thử nghiệm có tên MASTER DAPT được xuất bản  trên Tạp chí Y học New England. Họ đã tiến hành kiểm tra kết quả của hơn 4.500 bệnh nhân sau khi nong mạch vành và cấy một loại stent rửa giải thuốc, phân hủy sinh học. Trong số những bệnh nhân có nguy cơ chảy máu cao, việc rút ngắn thời gian điều trị bằng thuốc kháng tiểu cầu kép xuống một tháng dường như làm giảm nguy cơ đó mà không làm xấu đi các kết quả tim mạch bao gồm đau tim, đột quỵ và tử vong
  • Trong khi đó, nghiên cứu từ Michigan cho thấy cần phải xem xét lại việc sử dụng aspirin ở những bệnh nhân dùng thuốc chống đông máu đường uống trực tiếp (DOAC) hoặc bất kỳ loại thuốc chống đông máu nào thay thế cho thuốc đối kháng vitamin K như warfarin. Những người đang sử dụng DOAC cho thấy rằng trung bình trong gần 21 tháng, những người cũng sử dụng aspirin có nguy cơ cao hơn về các vấn đề chảy máu và nhập viện liên quan mà không cải thiện tỷ lệ đông máu.

Một viên thuốc dành cho cả cholesterol và huyết áp có thể giúp ngăn ngừa bệnh tim mạch

  • Trong thách thức ngăn ngừa bệnh tim mạch, phương pháp “một viên thuốc để phù hợp tất cả” có thể có tác động rộng rãi đến sức khỏe cộng đồng.
  • Một nghiên cứu quốc tế lớn được công bố trên Tạp chí Y học New England cho thấy rằng một loại “polypill” được dùng cùng với aspirin, có thể giảm 31% nguy cơ tử vong do tim mạch hoặc các biến cố bao gồm nhồi máu cơ tim, đột quỵ, ngừng tim và suy tim khi so với giả dược. Polypill chứa bốn loại thuốc: simvastatin, hydrochlorothiazide, atenolol và ramipril.

Nguồn: https://www.heart.org/en/around-the-aha/aha-names-top-heart-disease-and-stroke-research-advances-of-2021

Chia sẻ bài viết này