Tác giả: ThS.DS. Trương Văn ĐạtvàDS. Nguyễn Nhật Quang Anh
Cập nhật lần cuối lúc 23:49, 25/08/2022. Phản hồi về nội dung, liên hệ với chúng tôi tại đây
Với sự phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0, việc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông cho y tế đã dần được quan tâm đầu tư và phát triển ở Việt Nam. Từ tuyến địa phương đến trung ương, y tế điện tử đang thay đổi cách cung cấp dịch vụ chăm sóc, vận hành hệ thống y tế, hỗ trợ các chức năng quan trọng bằng cải thiện khả năng tập hợp, phân tích, quản lý và trao đổi thông tin trong tất cả các lĩnh vực y tế, từ nghiên cứu về di truyền học phân tử đến những hỗ trợ khi xảy ra tình trạng khẩn cấp như đại dịch COVID-19.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Telehealth được định nghĩa là “Việc cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, trong đó khoảng cách là một yếu tố quan trọng, bởi tất cả các chuyên gia chăm sóc sức khỏe sử dụng công nghệ viễn thông để trao đổi thông tin hợp lệ từ đó chẩn đoán, điều trị, phòng ngừa bệnh tật và chấn thương, nghiên cứu và đánh giá, đồng thời giáo dục thường xuyên cho các nhân viên y tế, tất cả vì lợi ích nâng cao sức khỏe của cá nhân và cộng đồng”.
Y tế từ xa (Telehealth) có nhiều nền tảng khác nhau, bên cạnh hệ thống khám bệnh từ xa (Telemedicine) thì hệ thống chăm sóc dược từ xa (Telepharmacy) cũng đã được ứng dụng rộng rãi trên thế giới. Telepharmacy cho phép dược sĩ và nhà thuốc đã đăng ký pháp lý sử dụng viễn thông hoặc công nghệ thông tin để cung cấp dịch vụ chăm sóc dược cho người bệnh ở khoảng cách xa, giúp phát huy tối ưu vai trò của dược sĩ trong hệ thống chăm sóc sức khỏe và là một trong những giải pháp hạn chế những rủi ro trong việc sử dụng thuốc không đúng cách của người bệnh, đảm bảo việc sử dụng thuốc an toàn, hợp lý và hiệu quả. Trong tình hình đại dịch COVID-19 đang tiếp diễn, việc dược sĩ tư vấn qua điện thoại, giao thuốc tận nơi để tránh tiếp xúc giữa các cá nhân, hạn chế lây truyền dịch bệnh trong cộng đồng và tránh được việc gãy chuỗi cung ứng thuốc cho bệnh nhân, đặc biệt là các bệnh nhân mãn tính.
Lợi ích của Y tế từ xa (Telehealth)
Thúc đẩy sự phát triển và lan tỏa của ngành y tế
Telehealth có thể thúc đẩy sự mở rộng của ngành y tế đến với tất cả mọi người. Những nỗ lực mở rộng mạng lưới y tế giờ đây có thể tiếp cận những đối tượng cụ thể, các chuyên gia y tế có thể giúp bệnh nhân kể cả khi họ đang ở nhà, tư vấn và hướng dẫn bệnh nhân tìm hiểu thêm về sức khỏe. Việc mở rộng mạng lưới y tế bằng Telehealth, hoặc cụ thể hơn bằng y tế di động, đang dần được thực hiện rộng rãi, đặc biệt là ở những nước đang phát triển.
Trong một bài báo năm 2015 đánh giá nghiên cứu về việc sử dụng ứng dụng y tế di động ở Vương quốc Anh, các tác giả mô tả các ứng dụng tại nhà giúp bệnh nhân quản lý và theo dõi sức khỏe và các triệu chứng của họ một cách độc lập. Ứng dụng sức khỏe di động cho phép mọi người nhanh chóng tự báo cáo các triệu chứng của họ, có tới 95% bệnh nhân có thể báo cáo các triệu chứng hàng ngày của họ trong vòng chưa đầy 100 giây, tức là chưa đến 5 phút (cộng với việc đi lại) được thực hiện để đo các dấu hiệu quan trọng của y tá trong bệnh viện. Các ứng dụng trực tuyến cho phép bệnh nhân ở nhà để theo dõi sự tiến triển của các bệnh mãn tính của họ.
Ở các nước phát triển, các nỗ lực nâng cao sức khỏe bằng cách sử dụng Telehealth đã đạt được một số thành công. Ứng dụng Google Glass giúp hướng dẫn cho con bú của Úc đã báo cáo kết quả đầy hứa hẹn vào năm 2014. Ứng dụng này được thực hiện với sự hợp tác của Hiệp hội Nuôi con bằng sữa mẹ Úc và một công ty khởi nghiệp công nghệ có tên Small World Social, đã giúp các bà mẹ mới sinh học cách cho con bú.
Chăm sóc người bệnh thuận tiện hơn, dễ tiếp cận người bệnh hơn:
Sức mạnh của Telehealth không chỉ phá vỡ các rào cản địa lý điển hình để tiếp cận chăm sóc, mà còn tạo ra sự thuận tiện hơn cho người bệnh trong toàn bộ mô hình cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
Một số bệnh viện vệ tinh, phòng khám và trung tâm y tế ở các vùng nông thôn nước ta hiện đang phải đối mặt với tình trạng khan hiếm dịch vụ y tế địa phương, thiếu nơi cung cấp thuốc hoặc không có sự tham gia của dược sĩ, hoặc thậm chí thiếu bác sĩ tham gia chữa trị. Trong tình huống không có bác sĩ hay dược sĩ ở những địa điểm này, phần lớn các dịch vụ dược được chuyển sang các khu vực tập trung đông dân cư hơn có cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Điều này có thể xảy ra những gánh nặng cho ngành y tế ở những khu vực đó, từ đó sai phạm trong y tế. Telehealth có thể giải quyết tình trạng thiếu bác sĩ, dược sĩ bằng cách cho phép họ hoạt động các dịch vụ liên quan đến y tế như xem xét sử dụng thuốc, tư vấn cho người bệnh và giáo dục người bệnh ngay cả khi ở xa.
Dự án Telepharmacy ở North Dakota đã giải quyết vấn đề này thành công. Ở mỗi bệnh viện trong dự án có một dược sĩ làm việc toàn thời gian. Các bệnh viện có thể chia sẻ nhân viên dược sau giờ làm, buổi tối, cuối tuần, ngày lễ, ngày nghỉ ốm, kỳ nghỉ và cả khi dược sĩ vắng mặt. Liên kết máy tính, âm thanh và video được tích hợp và kết nối đầy đủ, bao gồm hệ thống máy tính của nhà thuốc, được cài đặt tại mỗi bệnh viện tham gia và trong mỗi nhà của dược sĩ. Khi dược sĩ ở bệnh viện trong giờ làm việc bình thường, họ có thể kết nối với bất kỳ tổ chức tham gia nào khác để đáp ứng mọi nhu cầu về nhân viên dược. Sau giờ làm việc, khi có cuộc gọi hoặc trong thời gian dược sĩ không thể đến bệnh viện (ví dụ, trong trường hợp thời tiết khắc nghiệt), họ có thể tiếp tục cung cấp dịch vụ từ nhà của họ.
Tiết kiệm chi phí chăm sóc sức khỏe:
Telehealth giúp giảm chi tiêu chăm sóc sức khỏe bằng cách giảm các chi phí gián tiếp và chi phí không liên quan đến y tế.
Đối với người bệnh, Telehealth giúp tiết kiệm thời gian và chi phí đi lại để nhận được các dịch vụ y tế. Một chương trình Telepharmacy tập trung vào các dịch vụ quản lý trị liệu thuốc trong 6 đến 9 tháng ở 96 bệnh nhân cao tuổi người Mỹ gốc Campuchia ở Connecticut, Hoa Kỳ, đã thành công trong việc tiết kiệm gần 300.000 đô la Mỹ. Chương trình này xác định 604 vấn đề liên quan đến thuốc và giải quyết 93% trong số đó. Chương trình có sự tham gia của dược sĩ lâm sàng cũng giúp bệnh nhân tiết kiệm chi phí. Tỷ lệ lợi ích của các dịch vụ dược lâm sàng nằm trong khoảng từ 1,05:1 đến 25,95:1.
Đối với các tổ chức y tế, bệnh viện tham gia hệ thống Telepharmacy, ban lãnh đạo nhận thấy mở một nhà thuốc mới sẽ tốn kém hơn nhiều so với chi phí liên quan đến thiết bị và tuyển dụng dược sĩ cho Telepharmacy. Một dược sĩ lành nghề có thể cung cấp dịch vụ cho nhiều trang web Telepharmacy. Do đó, xem xét giữa tăng mức lương cho dược sĩ với các chi phí trong việc thuê thêm dược sĩ, xây dựng các nhà thuốc cho các khu vực nông thôn, thì tăng lương cho dược sĩ cung cấp dịch vụ Telepharmacy sẽ giúp chi phí được giảm thiểu. Ở Mỹ, mức lương ước tính của một dược sĩ là 55 đô la Mỹ mỗi giờ và 30 giờ làm việc hàng tuần, chi phí dịch vụ sẽ là 1.650 đô la Mỹ mỗi tuần. Chi phí tránh được liên quan đến can thiệp lâm sàng gia tăng, được ghi nhận là 23.442 đô la Mỹ (86.064 đô la Mỹ so với 62.642 đô la Mỹ). Do đó, dịch vụ Telepharmacy tiết kiệm được 21.722 đô la Mỹ trong một tuần. Nếu khoản tiết kiệm này ngoại suy thành 1 năm, thì khoản tiết kiệm hàng năm là 1.132.144 đô la Mỹ.
Tăng cơ hội tiếp cận tư vấn sức khỏe cho người bệnh:
Người bệnh ngày nay sống trong một thế giới ngày càng kết nối và mong đợi một dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt hơn. Telehealth cho phép người bệnh kết nối với bác sĩ của họ một cách thuận tiện và thường xuyên hơn. Họ có thể đưa ra nhiều câu hỏi hơn và nhận được nhiều câu trả lời hơn từ bác sĩ, mối quan hệ bác sĩ – người bệnh gắn kết hơn, người bệnh cảm thấy được trao quyền để quản lý việc chăm sóc sức khỏe của họ. Tiếp cận thuốc và thông tin ở các vùng nông thôn qua Telepharmacy có một lợi thế là sự hài lòng của người bệnh. Một trong những rào cản nổi bật ở bệnh viện là người bệnh lớn tuổi lỡ hẹn vì không muốn ra khỏi nhà. Hệ thống này đã cho phép các dược sĩ xem xét thuốc của người bệnh mà người bệnh không cần phải di chuyển. Điều này đã làm tăng sự tin tưởng và sự hài lòng của người bệnh đối với dịch vụ. Một nghiên cứu của Hoa Kỳ nhằm xác định các yếu tố cơ bản quyết định sự hài lòng của người bệnh tùy thuộc vào phương thức cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe hoặc các yếu tố cộng đồng. Cụ thể người bệnh ở vùng nông thôn coi trọng việc nhận các dịch vụ dược tại địa phương thông qua dịch vụ Telehealth thay vì phải di chuyển đến các thành phố trung tâm ở xa.
Cơ hội trao đổi chuyên môn và đào tạo liên tục cho cán bộ y tế:
Với Telehealth, một hệ thống y tế trực tuyến sẽ được thiết lập, cán bộ y tế có thể ngay lập tức mở rộng việc tiếp cận các chuyên gia thích hợp. Điều này giúp bác sĩ dễ dàng tham khảo ý kiến từ đồng nghiệp và chuyên gia lĩnh vực về các case bệnh phức tạp, từ đó nâng cao trình độ chuyên môn.
Ngoài ra, Telehealth cung cấp các trang web đào tạo lâm sàng cho sinh viên dược, dược sĩ bệnh viện tuyến dưới để đào tạo họ cách cung cấp dịch vụ dược cho cộng đồng nông thôn.
Hạn chế của Telehealth
Thiếu kinh phí để phát triển cơ sở hạ tầng, hạn chế trong quá trình tiếp nhận,bất cập về luật và chính sách liên quan:
Mặc dù Telehealth có tiềm năng phát triển rộng rãi, nhưng luật và chính sách quản lý hoạt động đang còn nhiều bất cập. Một số vấn đề về chính sách, chẳng hạn như vị trí thực tế của dược sĩ cung cấp dịch vụ Telepharmacy, khoảng thời gian tối thiểu mà dược sĩ phải có mặt tại trung tâm dịch vụ, loại công nghệ được sử dụng và vai trò của dược sĩ, kỹ thuật viên dược, y tá hoặc các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe khác trong hệ thống phân phối thuốc. Các quy định không chỉ chi phối hệ thống, đảm bảo việc xử lý thuốc an toàn mà còn cả hoạt động của hệ thống sử dụng thuốc toàn diện. Ở những nơi mà luật Telepharmacy tồn tại, thiếu sự thống nhất giữa các khu vực pháp lý khác nhau. Việc thực thi luật Telepharmacy đồng bộ và toàn diện vẫn là một thách thức.
Ở Việt Nam, Telehealth vẫn là khái niệm khá mới mẻ. Mặc dù BYT đã cho phép ứng dụng Telehealth vào việc khám chữa bệnh nhưng hiện nay các văn bản pháp luật về đề tài này đang còn là khá hạn chế.
Gần đây nhất, BYT đã phê duyệt chương trình chuyển đổi số y tế đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 theo Quyết định số 5316/QĐ-BYT vào ngày 22/12/2020. Trong đó quy định các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm như sau:
- Phát triển nền tảng cho chuyển đổi số
- Phát triển Chính phủ số trong ngành Y tế
- Phát triển Kinh tế số trong ngành Y tế
- Phát triển Xã hội số trong ngành Y tế
- BYT cũng đã ban hành Bộ tiêu chí Công nghệ thông tin để thực hiện hoạt động Telehealth theo Quyết định số 28/QĐ-BYT ngày 05/01/2021. Đồng thời, Hội thảo tổng kết dự án “Triển khai giải pháp tư vấn khám, chữa bệnh từ xa tại tuyến y tế cơ sở, giai đoạn 2 và định hướng triển khai mở rộng giai đoạn 3” cũng đã được tổ chức vào ngày 23/06/2022.
Yêu cầu đào tạo kỹ thuật và trang thiết bị:
Cũng giống như hầu hết các giải pháp công nghệ khác, nền tảng Telehealth thường đòi hỏi việc đào tạo và mua sắm thiết bị. Chi phí phụ thuộc vào giải pháp tảng Telehealth, các bác sĩ chính và chuyên gia tư vấn có thể yêu cầu đào tạo nhiều hơn, thiết bị y tế đa dạng hơn.
Các phòng khám vệ tinh và bệnh viện tuyến dưới với các dịch vụ Telehealth trải qua những thách thức về vận hành và tài nguyên. Dịch vụ Telehealth có thể có các thiết bị phức tạp để kết nối kỹ thuật số tốc độ cao (ví dụ: Mạng kỹ thuật số, dịch vụ tích hợp), thường bị giới hạn ở khu vực tuyến dưới, vùng xa.
Mặc dù Telehealth có một số lợi ích như bất kỳ hệ thống thông tin nào khác, việc đánh giá quan điểm của người dùng về công nghệ là rất quan trọng. Trên thực tế, kiến thức và nhận thức của các Dược sĩ và các sinh viên ngành Dược học đối với Telehealth là yếu tố quyết định về sự thành công của Telehealth nói chung và Telepharmacy nói riêng trong lĩnh vực dược. Trong quá khứ, có một số rào cản để áp dụng các dịch vụ Telehealth hoặc chăm sóc sức khỏe từ xa trong môi trường chăm sóc sức khỏe như hoàn trả cho các dịch vụ, đào tạo nhân viên, áp dụng công nghệ mới, chi phí thực hiện, sự chấp nhận của bệnh nhân,…
Có thể làm giảm sự tương tác trực tiếp với nhân viên y tế:
Một số chuyên gia cho rằng các tương tác trực tuyến là phi cá nhân, và những kiểm tra vật lý thường cần thiết để đưa ra một chẩn đoán đầy đủ, chính xác. Nếu có nhiều người bệnh sử dụng tương tác trực tuyến thay cho thăm khám trực tiếp, thì sẽ có những tác động nào? Các cuộc thăm khám trực tiếp giữa bác sĩ và người bệnh – rõ ràng là có giá trị và cần thiết trong nhiều trường hợp. Telehealth được sử dụng tốt nhất khi bổ sung cho những lần thăm khám trực tiếp, thực hiện việc kiểm tra đơn giản với người bệnh và đảm bảo tình trạng sức khỏe người bệnh ổn định. Đối với các tình trạng cấp tính nhẹ (như nhiễm trùng), thường không cần đến khám trực tiếp, Telehealth sẽ thuận tiện hơn cho người bệnh, bác sĩ, tiết kiệm thời gian và tiền bạc cho hệ thống chăm sóc sức khỏe.
Nguy cơ rò rỉ thông tin cá nhân:
Để áp dụng Telehealth vào thực tế, yêu cầu bắt buộc là số hóa thông tin người bệnh và chia sẻ thông tin giữa các đơn vị. Nếu quá trình quản lý và bảo mật không tốt, hoàn toàn có thể xảy ra nguy cơ rò rỉ thông tin cá nhân. Người bệnh có thể cảm thấy lo lắng về việc bảo mật thông tin cá nhân khi sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh từ xa và từ đó nghi ngờ cơ sở y tế đã làm rò rỉ thông tin của họ trong quá trình thực hiện dịch vụ.
Telehealth liên quan đến việc thu thập, truyền tải và định vị thông tin cá nhân và sức khỏe của người bệnh qua Internet. Nên bảo mật và quyền riêng tư của thông tin
trở thành một vấn đề lớn, đặc biệt là trong thời đại công nghệ hiện nay. Việc chia sẻ dữ liệu thông tin được thu thập thông qua các dịch vụ Telehealth với các chuyên gia chăm sóc sức khỏe khác làm tăng nguy cơ vi phạm an ninh, gây rò rỉ thông tin cá nhân của người dùng. Do đó, tính bảo mật và tính toàn vẹn của dữ liệu người bệnh là
điều tối quan trọng khi xác định thiết lập công nghệ của hệ thống Telehealth.
Ngoài ra, chất lượng hoạt động của mô hình Telehealth còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố chủ quan khác như khả năng giao tiếp, truyền đạt của cán bộ y tế; khả năng tiếp nhận thông tin của người bệnh; niềm tin giữa người bệnh và bác sĩ cũng như sự tuân thủ điều trị của người tiếp nhận dịch vụ.
Kết luận
Trong hai năm qua, sự bùng nổ của đại dịch COVID-19 đã dẫn đến sự chuyển đổi của ngành y tế trên khắp thế giới. Việc cách ly xã hội và giữ khoảng cách an toàn đã đem lại thử thách lớn cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe thông thường. Thúc đẩy bởi sự cần thiết và được sự chấp thuận của nhiều tổ chức chính phủ trên thế giới, Telehealth đã dần dần trở thành một phần quan trọng trong các dịch vụ chăm sóc sức khỏe thời kì mới. Telehealth trong đại dịch COVID-19 đã được sử dụng rộng rãi như một biện pháp hỗ trợ quản lý tích cực bệnh nhân mắc COVID-19 và các bệnh mãn tính khác; để giám sát, phân loại và chẩn đoán; điều trị bệnh bao gồm đơn thuốc điện tử, hồ sơ điện tử, theo dõi, chăm sóc và phục hồi chức năng.
Cùng với các thiết bị tự chăm sóc sức khỏe và các thiết bị theo dõi sức khỏe cầm tay như đồng hồ thông minh theo dõi nhịp tim, máy đo đường huyết cầm tay, máy đo huyết áp cá nhân, máy đo nồng độ Oxy máu,…đã gia tăng tính ứng dụng của Telehealth trong đại dịch COVID-19. Việc sử dụng các thiết bị trên càng được phổ biến rộng rãi được kỳ vọng sẽ tiếp tục đóng vai trò hỗ trợ cho việc cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe từ xa và chăm sóc sức khỏe trực tiếp trong tương lai.
Như vậy, nếu nói Telehealth là ‘”lợi bất cập hại” là chưa chính xác, chính xác là lợi – hại không quan trọng bằng việc cứ triển khai sẽ thu được lợi nhiều hơn hại!